Trích trong cuốn Autoportrait (À l’étranger) xuất bản năm 2000
Ngay sau hôm đặt chân đến Hà Nội, đoàn đại biểu chúng tôi được tiếp đón tại Hội Nhà Văn, trong khuôn khổ một buổi gặp mặt thân mật với các đồng nghiệp Việt Nam. (Chúng tôi giống như ba chàng lính ngự lâm, hay chính xác hơn là bốn, bởi đây là số diễn giả đến từ Paris để tham dự sự kiện văn hóa này). Tại tầng một của một tòa nhà hiện đại, có ban công và những mái vòm, chúng tôi bước vào một phòng họp lớn nhưng vô hồn, mà nếu không nhờ cái nóng, cái nóng đặc trưng của phương Đông, nồng nàn và ngột ngạt hơn cả ở Berlin, thì căn phòng hoàn toàn có thể tưởng tượng như ở Đông Berlin cách đây mười năm.
Căn phòng được trang trí với đồ nội thất bằng formica, rèm tuyn mỏng che các ô cửa kính lớn, thảm trải sàn màu xám, các micro đặt trên bàn (và có thể có cả những chiếc giấu trong tường), vài bó hoa tươi cắm rải rác đây đó, một bục phát biểu nhỏ đơn giản như bục của nhạc trưởng với một bình hoa và một chiếc micro dành cho diễn giả.
Trên bức tường phía sau bục phát biểu, những chữ nhựa to bản được dán từng ký tự riêng lẻ, chào đón chúng tôi bằng dòng chữ mang phong cách nghệ thuật uốn lượn của các dấu sắc và dấu mũ đảo ngược:
Gặp gỡ nhà văn Việt Nam và các nhà văn Pháp. 3.10.1995.
Tốt lắm, tốt lắm.
Tôi ngồi xuống một bên của chiếc bàn họp khổng lồ hình chữ U, tất nhiên là phía dành cho người Pháp, giữa Olivier Rolin và Tahar Ben Jelloun. Đối diện chúng tôi, bên nhánh đối diện của chữ U, là hàng nhà văn Việt Nam, những con người khó đoán, trầm mặc và nghiêm trang trong những chiếc áo sơ mi ngắn tay xám bạc, nhìn chằm chằm chúng tôi qua những cặp kính dày.
Người ta thường phân loại các nhà văn Việt Nam theo thế hệ, và tại đây, chúng tôi đang đối diện với bốn thế hệ nhà văn Việt Nam: từ những người cao tuổi nhất, từng sống dưới thời thuộc địa Pháp, cho đến những người trẻ nhất, từng tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngay trước mặt tôi là một nhà văn thuộc thế hệ đầu tiên, với nước da nhợt nhạt, mái tóc bạc trắng và dáng vẻ yếu ớt. Kế bên ông là một nhà văn khác thuộc thế hệ thứ hai, gần như mù lòa, với ánh mắt lạc lõng, chăm chăm nhìn về phía tôi.
Ở cuối nhánh chữ U của chiếc bàn, chỗ có thể ví như phần gót của chiếc tất, là nơi ngài đại sứ Pháp ngồi, với vẻ mặt điềm tĩnh, đang chậm rãi ngậm một viên kẹo ho một cách thản nhiên. Sau đó là chúng tôi, các diễn giả, gần như đã có mặt đầy đủ, với ba trong bốn người có mặt (người thứ tư vẫn đang ngủ ngon tại khách sạn). Chúng tôi ngồi nghiêm chỉnh, cố giữ dáng vẻ chăm chú và trầm ngâm, đôi lông mày nhíu lại một cách cẩn trọng, ánh mắt tỏ vẻ quan tâm, có phần hơi quá mức để trông thật tự nhiên.
Khi tất cả đã an vị quanh chiếc bàn họp hình chữ U khổng lồ, vị Tổng Thư Ký của Hội Nhà Văn bước lên bục phát biểu. Ông đi cùng một người phiên dịch nhỏ bé, có vẻ xúc động và hơi run rẩy, mặc một chiếc áo sơ mi tay ngắn màu xám nhạt. Người phiên dịch bắt đầu dịch trực tiếp từng câu của ông với vẻ căng thẳng.
Khi vị Tổng Thư Ký kết thúc, quyền phát biểu được trao cho một đại diện của Bộ Văn hóa. Người này đứng dậy, bước đến bục và bắt đầu đọc một bài diễn văn rất dài, đầy tính nghi thức về văn học và bản sắc dân tộc. Bài diễn văn trải dài ít nhất sáu tờ giấy, được ông ta đọc liền mạch từ đầu đến cuối, bất chấp những sự cố âm thanh thỉnh thoảng xảy ra. Loa phát thanh ban đầu chỉ rè nhẹ, sau đó bất ngờ chói tai ở các đoạn cao giọng.
Sau khoảng mười phút, không còn ai chú ý đến những gì ông đang nói. Những mẩu giấy nhỏ bắt đầu được chuyền tay trong phòng. Những mẩu giấy này chuyển từ cố vấn văn hóa sang người phụ trách sách, từ người phụ trách sách đến tùy viên văn hóa. Khi nhận được, người ta mở tờ giấy ra một cách lơ đãng, đọc qua, rồi lại ngẩn ngơ nhìn xa xăm, làm ra vẻ như vẫn đang lắng nghe diễn giả.
Đến một lúc nào đó, khi bài diễn văn của vị đại diện Bộ Văn hóa vẫn tiếp tục không có dấu hiệu dừng lại, chúng tôi thấy cánh cửa phòng họp khẽ mở ra một cách thận trọng. Hai cô gái trẻ bước vào, trông vừa kín đáo vừa im lặng, với những bước chân nhẹ nhàng phát ra tiếng sột soạt trên sàn và những chiếc áo dài lụa thoáng chạm nhau. Họ bắt đầu dọn những tách trà mà chúng tôi đã được phục vụ lúc mới đến, thay vào đó là những lon soda và bia Tiger, loại bia đến từ Singapore (mặc dù khi ấy mới chỉ hơn 9 giờ sáng). Sau đó, họ mang đến những tô súp, những đĩa rau trộn, nem, một ít đồ nguội, cơm, và rau sống.
Có rất nhiều món ăn được dọn ra, và tôi giúp sắp xếp chúng lên bàn trước mặt chúng tôi: những đĩa thịt lợn nguội, những bát nhỏ đựng pâté, bánh mì nướng, bánh bao, cùng với những ly vodka nhỏ, mà người ta bắt đầu rót vào đó nào là whisky, nào là cognac, tùy theo chai nào tiện tay, để lát nữa nâng ly chúc mừng tình bạn và văn học. (Tất cả những điều này mang một nét gì đó mơ hồ giống người Lithuania, nếu không muốn nói là thực sự đáng mến).
Chẳng mấy chốc, các vị chủ nhà bắt đầu khui bia một cách kín đáo, lén lút rót vào ly của mình, trong khi vẫn giữ ánh mắt thỉnh thoảng liếc về phía bục phát biểu. Ở đó, vị đại diện Bộ Văn hóa đang tiếp tục bài diễn văn với nội dung mới: mùa thu ở Việt Nam là mùa của thơ ca và cách mạng. (À, thật đúng dịp, tôi thầm nghĩ, chúng tôi quả thực đã chọn thời điểm lý tưởng để đến vào mùa thu).
Tôi nhấc bát súp lên môi, thận trọng thổi bề mặt lớp nước nóng bỏng trước khi nếm thử một ngụm. Bài diễn văn của vị đại diện cuối cùng cũng kết thúc trong tràng pháo tay rầm rộ, và quyền phát biểu được chuyển cho ngài đại sứ Pháp.
Rất cao lớn, với mái tóc đen và gợn sóng, vị đại sứ Pháp đứng dậy, tiến đến bục phát biểu, quan sát chúng tôi một lượt rồi bắt đầu, theo phong cách vừa hùng biện kiểu Racine, vừa táo bạo và phá cách. Đôi bàn tay to lớn và ánh mắt rực lửa của ông khiến từng lời ông nói như bừng sáng. Giọng nói khàn khàn, hơi thô ráp, như thể được điểm xuyết bởi dư âm của một viên kẹo ho vị bạch đàn, làm bài phát biểu vốn dĩ rất chuẩn mực của ông trở nên kỳ lạ và độc đáo, đôi lúc còn phảng phất nét hào hùng kiểu De Gaulle. Thỉnh thoảng, ông vung tay với những cú nhấn mạnh đầy ấn tượng, nhằm tôn vinh “sự tỏa sáng của nước Pháp tại châu Á.” (Tôi tự nhủ: “Có lẽ nên nói là ‘sự chiếu xạ của nước Pháp’ sẽ phù hợp hơn, trong bối cảnh hiện tại, khi các thử nghiệm hạt nhân của Pháp đang tái diễn ở Thái Bình Dương”).
Các vị chủ nhà người Việt lắng nghe ngài đại sứ với vẻ mặt nghiêm trang, thỉnh thoảng gật đầu đồng tình với những gì ông nói, thậm chí còn ghi chép vài điều vào sổ tay của mình (viết cẩn thận: “sự tỏa sáng không chỉ về kinh tế mà còn về văn hóa,” và họ còn nhấn mạnh từ “văn hóa” bằng cách gạch chân).
Tôi không biết liệu mình có đang mơ hay tự tưởng tượng ra không, rằng cô ấy đi cùng ai đó hay chỉ tình cờ ghé qua, nhưng trong căn phòng họp này, nơi hội tụ của một tập thể chăm chỉ gồm các nhà văn và nhà ngoại giao, với mục tiêu hoàn thành tốt công việc, chỉ cách tôi vài người Việt Nam khác, có thể là nhà ngôn ngữ hay dịch giả, là sự hiện diện bất ngờ của Jane Birkin.
Đến lúc chia tay, khoảng gần trưa, khi mọi người đã ăn gần hết các món (các cuộc thảo luận đã chuyển sang không khí thân mật hơn, mỗi người vẫn ngồi tại chỗ của mình, thỉnh thoảng gắp vài chiếc nem còn sót lại trên đĩa bằng đôi đũa, nhấm nháp một chút đồ nguội, hoặc dùng micro di động để phát biểu ý kiến nếu muốn), vị Tổng Thư Ký của Hội Nhà Văn đứng lên, kết luận buổi làm việc, và đặc biệt bày tỏ sự chào đón nồng nhiệt đến sự hiện diện của nữ nghệ sĩ, diễn viên và ca sĩ Jane Birkin.
Ông tiến đến chỗ Jane Birkin với vẻ rụt rè và nhã nhặn, rồi ngỏ lời đề nghị, rằng vì cô là một ca sĩ, liệu cô có thể vinh hạnh dành tặng mọi người một bài hát nhỏ để kết thúc buổi làm việc. Jane Birkin, có phần bối rối, từ chối một cách lịch sự nhưng không giấu được một nụ cười nhẹ trên môi.
“Một bài hát quen thuộc của cô,” vị Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn tiếp tục nài nỉ, đồng thời đưa chiếc micro không dây về phía Jane Birkin. “Không, không, tôi thật sự không thể,” Jane Birkin lặp lại, tiếp tục cười thành tiếng rồi lại mỉm cười.
Các vị chủ nhà Việt Nam, từ mọi góc của căn phòng, bắt đầu đồng thanh thuyết phục Jane Birkin. Tôi không rõ mọi thứ đã bắt đầu thế nào, nhưng đến lúc này, cả phòng họp đều quay sang khẩn cầu Jane Birkin hát. Bốn thế hệ nhà văn Việt Nam, từ những người từng chiến đấu chống Pháp, đến những người từng chiến đấu chống Mỹ, tất cả, trong căn phòng lớn này, đang vỗ tay rào rào và đồng thanh hô vang: “Một bài hát, một bài hát!”
Chúng tôi, những diễn giả từ Pháp, cũng tham gia hô hào theo, phần vì lịch sự với các vị chủ nhà. Các thành viên của Đại sứ quán Pháp, các nhà học thuật, vài dịch giả, thậm chí cả ngài Đại sứ Pháp, dù giọng nói của ông khàn khàn vì cảm, cũng hòa giọng vào: “Một bài hát, một bài hát!”
Jane Birkin bắt đầu phá lên cười, một tràng cười giòn giã và cuốn hút, như cách riêng của cô, Jane Birkin. “Một bài hát, một bài hát!” Chúng tôi vẫn tiếp tục hô vang. Đến mức này, Jane Birkin không thể từ chối được nữa, ai mà có thể cưỡng lại lời khẩn cầu từ bốn thế hệ nhà văn Việt Nam chứ?
Cuối cùng, cô đứng dậy, nhanh nhẹn bước dọc lối đi giữa những hàng ghế, tay vén nhẹ một lọn tóc qua tai. Cô cầm lấy micro, quay sang nhìn vị đại diện Bộ Văn Hóa và bắt đầu hát:
“Et quand tu as plongé dans la lagune,
Nous étions tous deux tout nus…”
Và khi em lao mình xuống đầm phá, cả hai ta đều trần trần truồng…
Sơn Ca dịch
Jean-Philippe Toussaint: Gặp gỡ Hội nhà văn Việt Nam